Duy tâm và chủ nghĩa duy vật thực dụng liệu có thể giao thoa với nhau trong thế kỷ XXI?

Hôm nay có người hỏi tôi: Chủ nghĩa Duy Tâm và Duy Vật em nên chọn sống theo hướng nào? Em thấy thế kỷ XXI này con người sống thực dụng quá!

Tôi nói: Em không nên nên sống theo hướng nào cả, vì theo bất cứ hướng nào trong hai hướng đó cuộc sống của em đều sẽ gặp vấn đề.

- Vấn đề như thế nào ạ? Bạn ấy hỏi lại.


Tôi đoán rằng nhiều người cũng đang có băn khoăn giống người bạn này, vì vậy tôi quyết định viết bài này để chúng ta cùng thảo luận và chiêm nghiệm.

Gác lại vấn đề mà các nhà nghiên cứu bao gồm cả Triết Học và Khoa Học, các Nhà Tâm Linh hay Huyền Học đến các nhà Thiên Văn Học đã và đang tranh cãi hàng nghìn năm nay, rằng con gà có trước hay quả trứng có trước, rằng ý thức có trước hay vật chất có trước.

Chúng ta sẽ bàn đến sự hiện diện của 2 trường phái này ở thời hiện tại, trong khoảng khắc này khi hơi thở của chúng ta vẫn đang ấm nóng!

Có một câu chuyện về cuộc đời của một nhân vật đặc biệt mà có lẽ nhiều người biết đó là Đức Phật Thích Ca.

Ông sinh ra trong dòng dõi hoàng tộc, Thái tử Tất-đạt-đa được sinh ra tại vườn Lâm-tỳ-ni của thị tộc Thích-ca, tại thành quốc Ca-tỳ-la-vệ, một tiểu quốc nằm ở vùng biên giới Ấn Độ - Nepal ngày nay. 

Năm 29 tuổi, sau khi công chúa Da-du-đà-la vợ của ngài hạ sinh một bé trai - được đặt tên là La-hầu-la. Tất-đạt-đa quyết định từ bỏ cuộc sống xa hoa, lìa cung điện bất chấp nỗ lực ngăn cản của cha mình.

Ông bắt đầu thử cùng tu khổ hạnh với nhiều nhóm tăng sĩ khác nhau. Sau nhiều năm tu khổ hạnh gần kề cái chết, ông nhận ra đó không phải là phép tu dẫn đến giác ngộ, bắt đầu ăn uống bình thường.

Cách tu khổ hạnh được Phật nhắc lại sau khi thành đạo như sau:


Này Aggivessana!


Rồi Ta tự suy nghĩ như sau: "Ta hãy giảm thiểu tối đa ăn uống, ăn ít từng giọt một, như súp đậu xanh, súp đậu đen hay súp đậu hạt hay súp đậu nhỏ." 

Và này Aggivessana!

Trong khi Ta giảm thiểu tối đa sự ăn uống, ăn từng giọt một, như súp đậu xanh, xúp đậu đen hay súp đậu hột hay xúp đậu nhỏ, thân của Ta trở thành hết sức gầy yếu. 

Vì Ta ăn quá ít, tay chân Ta trở thành như những cọng cỏ hay những đốt cây leo khô héo; 

Vì Ta ăn quá ít, bàn trôn của Ta trở thành như móng chân con lạc đà; 

Vì Ta ăn quá ít, xương sống phô bày của Ta giống như một chuỗi banh; 

Vì Ta ăn quá ít, các xương sườn gầy mòn của Ta giống như rui cột một nhà sàn hư nát; 

Vì Ta ăn quá ít, nên con ngươi long lanh của Ta nằm sâu thẳm trong lỗ con mắt, giống như ánh nước long lanh nằm sâu thẳm trong một giếng nước thâm sâu; 

Vì Ta ăn quá ít, da đầu Ta trở thành nhăn nhiu khô cằn như trái bí trắng và đắng bị cắt trước khi chín, bị cơn gió nóng làm cho nhăn nhíu khô cằn. 

Này Aggivessana!

Nếu Ta nghĩ: "Ta hãy rờ da bụng", thì chính xương sống bị Ta nắm lấy. 

Nếu Ta nghĩ: "Ta hãy rờ xương sống", thì chính da bụng bị Ta nắm lấy. 

Vì Ta ăn quá ít, nên này Aggivessana, da bụng của Ta đến bám chặt xương sống. 

Này Aggivessana, nếu Ta nghĩ: "Ta đi đại tiện, hay đi tiểu tiện" thì Ta ngã quỵ, úp mặt xuống đất, vì Ta ăn quá ít. 

Này Aggivessana, nếu Ta muốn xoa dịu thân Ta, lấy tay xoa bóp chân tay, thì này Aggivessana, trong khi Ta xoa bóp chân tay, các lông tóc hư mục rụng khỏi thân Ta, vì Ta ăn quá ít. 

Lại nữa, này Aggivessana, có người thấy vậy nói như sau: "Sa-môn Gotama có da đen." 

Một số người nói như sau: "Sa-môn Gotama, da không đen, Sa-môn Gotama có da màu xám." 

Một số người nói như sau: "Sa-môn Gotama da không đen, da không xám." 

Một số người nói như sau: "Sa-môn Gotama da không đen, da không xám, Sa-môn Gotama có da màu vàng sẫm." 

Cho đến mức độ như vậy, này Aggivessana, da của Ta vốn thanh tịnh, trong sáng bị hư hoại vì Ta ăn quá ít."


Không đạt giải thoát với cách tu khổ hạnh, ông từ bỏ phép tu này. Quả quyết rằng mình đã đi đến chỗ cùng cực của công phu tu khổ hạnh và khổ hạnh không dẫn đến giác ngộ, ông tìm phương pháp khác.

Sau đó Tất-đạt-đa ăn uống bình thường trở lại, đến Giác Thành, ngồi dưới gốc một Cây Bồ-đề ở Bồ Ðề Ðạo Tràng và nguyện sẽ nhập định không rời chỗ ngồi cho đến lúc tìm ra nguyên nhân và cơ chế của Khổ. Sau 49 ngày thiền định—mặc dù bị Ma vương quấy nhiễu bằng nhiều phương thức—Tất-đạt-đa đã đạt giác ngộ hoàn toàn ở tuổi 35. Từ thời điểm đó, Tất-đạt-đa biết mình là Phật, là một bậc Giác ngộ.

Kinh nghiệm giác ngộ của Phật được ghi lại như sau trong kinh sách theo chính lời của Tất-đạt-đa như sau:


"... Sau khi hoàn lại sinh lực (sau khi tu khổ hạnh vô ích), ta chú tâm giải thoát khỏi những tư tưởng tham ái, bất thiện và đạt được sơ thiền, sau đó nhị thiền, tam thiền và tứ thiền (Tứ thiền), nhưng những cảm giác hỉ lạc này không để lại dấu vết gì trong tâm ta..."

Tại sao tôi lại muốn kể câu chuyện này, vì đây là lịch sử, Thái tử Tất Đạt Đa cũng là con người như bao người khác. Nhưng cuộc đời của Ông ấy đặc biệt gây ấn tượng lớn với tôi.

Ông ấy sinh ra là con vua, cuộc sống lớn lên trong nhung gấm lụa là, đời sống vật chất đầy đủ, vua cha lại có ý định truyền ngôi cho ông ấy. Xét về danh vọng, tiền tài và quyền lực trong thời bấy giờ ông ấy đã ở đỉnh cao nhất. 

Đó có lẽ là niềm mơ ước đối, mục tiêu theo đuổi của những người theo Chủ nghĩa duy vật - thực dụng.

Nhưng những thứ đó không làm Ông ấy thỏa mãn, không làm cho ông ấy "hạnh phúc" ("Hạnh Phúc": sử dụng ở đây là dùng cho thời hiện tại biểu thị cho việc chúng ta đang đi tìm kiếm một cảm xúc mơ hồ nào đó được diễn đạt bằng ngôn từ là: "Hạnh Phúc").

Có lẽ ông muốn một cái gì đó khác hơn, cái khác hơn ấy chính là chân lý tối thượng của vũ trụ. Về nguồn gốc của Sinh-Lão-Bệnh-Tử, để thoát khỏi ưu bi sầu khổ.

"...Khi tâm ta được an tịnh, thanh lọc, không bị dục vọng cấu uế, nhạy bén, chắc chắn, bất động, ta hướng nó về những ký ức và nhận thức về các kiếp trước. Ta nhớ lại nhiều tiền kiếp, một, hai, ba, bốn, năm,..., trăm ngàn kiếp trước, nhớ những chu kì của thế giới. 'Nơi đó ta đã sống, tên của ta đã như thế, gia đình của ta là như thế, nghề nghiệp của ta, giai cấp xã hội của ta... Ta đã chết như vầy...'. Sự hiểu biết (sa. vidyā, pi. vijjā) đầu tiên này ta đã đạt được trong canh đầu...

Sau đó ta chú tâm đến sự sinh thành và hoại diệt của chúng sinh. Với con mắt của chư thiên, trong sáng, siêu việt mọi giới hạn nhân thế, ta thấy chúng sinh hình thành và tiêu hoại,...chúng sinh tái sinh theo nghiệp lực. Ta nhận ra rằng 'Chúng sinh tạo nghiệp bất thiện qua ba ải thân khẩu ý đều chìm đắm sau khi chết, tái sinh trong đoạ xứ, địa ngục. Các chúng sinh nào tạo thiện nghiệp bằng thân khẩu ý được tái sinh trong thiện đạo, sau khi chết được lên cõi thiên'... Sự hiểu biết thứ hai này ta đã đạt được trong canh hai .

Sau đó ta chú tâm nhận thức về sự tiêu diệt các lậu hoặc (漏, sa. āsrava, pi. āsava) và nhìn nhận như thật: 'Đây là khổ, đây là nguyên nhân của khổ, đây là phương pháp tiêu diệt khổ, đây là con đường tiêu diệt khổ', và khi ta nhận thức được điều này, tâm ta thoát khỏi dục vọng, ham muốn tồn tại, vô minh. Ta tự hiểu chân lý 'Tái sinh ta đã đoạn, cuộc sống tu tập của ta đã hoàn tất, ta đã hoàn thành những gì phải làm. Cuộc sống (khổ đau) này ta đã vượt qua'... Sự hiểu biết thứ ba này ta đã đạt được trong canh ba...".

Đó có lẽ là thứ mà những người theo chủ nghĩa duy tâm luôn muốn tìm kiếm, đạt đến hay chứng ngộ được.

Sự thanh tịnh trong tâm hồn, an lạc trong mọi khoảng khắc, tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến... có lẽ cũng là điều mà cả những người dù đã đạt được đỉnh cao về tiền bạc, quyền lực và danh vọng đều muốn đạt tới.

Thế nhưng, ngài ấy không tìm thấy nó trong giàu có-lợi dưỡng, ngài ấy cũng không tìm thấy nó trong nghèo đói khi hành hạ bản thân thành thân tàn ma dại. 

Ngài ấy tìm thấy chân lý và đạt được sự giác ngộ bằng con đường Trung Đạo: "vừa từ bỏ lối sống xa hoa và cũng vừa từ bỏ lối tu ép xác khổ hạnh".

- Người sống quá thiên về chủ nghĩa duy tâm, coi tình cảm là trên hết, nhưng lại sống trong đói nghèo, suốt ngày phải vật lộn với cuộc sống để lo cơm áo gạo tiền, sẽ tự làm khổ chính mình và những người xung quanh mình. Chẳng còn thời gian hay tâm trí để phát triển, tu dưỡng tâm hồn mình.

Nó thậm chí là tấm gương về sự nghèo đói mà bất cứ ai cũng không muốn con cái hay người thân của mình trở thành.

- Người sống quá thiên về chủ nghĩa duy vật-thực dụng, coi tiền bạc vật chất, quyền lực và danh vọng là trên hết. Mà quên đi việc tu tâm dưỡng tính, coi thường đạo lý, đánh mất lương tâm-đạo đức con người. Thì bị xã hội xa lánh, sống trong cô độc và chết với đống tài sản của mình.

Albert Einstein đã từng phát biểu trong "Thuyết tương đối rộng" rằng:
"Thời gian và không gian hòa quyện với nhau tại một điểm mà con người trước đó chưa tưởng tượng ra được".

Thời gian là vô hình, không gian là hữu hình, nó cũng tượng như Duy tâm và Duy vật, liệu có thể hòa quyện với nhau tại một điểm khiến cho con người cảm thấy hoàn toàn "hạnh phúc"?


Tôi rất thích tựa đề cuốn sách "Điểm Bùng Phát" của Malcolm Gladwell, đó là một ý tưởng tuyệt vời để miêu tả về sự giao thoa hòa quyện của không gian và thời gian mà Albert Einstein đã nhắc đến trong thuyết tương đối rộng của mình.

"Điểm Bùng Phát" cũng là ý tưởng tuyệt vời để diễn tả về thời khắc mà Thái tử Tất-Đạt-Đa Cồ-Đàm chứng đắc thành Phật.

Liệu rằng hai đường thẳng ấy có thực sự song song, và liệu rằng hai đường thẳng song song có thể giao thoa với nhau tại một điểm?

No comments:

Powered by Blogger.